TS.Nguyễn Hữu Niên, Khoa Bộ môn chung
Trong phép biện chứng duy vật có 3 quy luật cơ bản (Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại; quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; quy luật phủ định của phủ định). Nội dung tri thức các quy luật trong phép biện chứng rất khái quát, trừu tượng gây khó khăn cho sinh viên khi tiếp nhận tri thức. Các em không thấy được ý nghĩa thiết thực của bài học với thực tiễn cuộc sống. Vậy làm thế nào để giúp sinh viên nhanh chóng hiểu được nội dung bài học, thấy được giá trị và có hứng thú với triết học? Trong bài viết này, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
- Một là, giảng viên cần nắm vững kiến thức, tìm cách biến những tri thức triết học trừu tượng, chung chung, khó hiểu thành những thứ gần gũi, dễ hiểu, dễ thấy đối với sinh viên
Khi giảng về các quy luật trong phép biện chứng duy vật, có nhiều khái niệm mới đối với sinh viên mà giảng viên cần làm cho các em hiểu rõ bản chất như: chất, lượng, độ, điểm nút, mâu thuẫn, phủ định, phủ định, biện chứng, phủ định của phủ định…Chẳng hạn, khi giảng về khái niệm “chất” nếu giảng viên chỉ thuyết trình thì sinh viên sẽ rất khó để hiểu được “chất” là gì. Đối với khái niệm này, giảng viên có thể đi từ những ví dụ cụ thể, phân tích cho các em hiểu được đâu là thuộc tính của sự vật, đâu là thuộc tính cơ bản, từ đó chỉ ra chỉ những thuộc tính nào là chất của sự vật. Có thể lấy ví dụ về đường và muối để hình thành khái niệm chất đối với sinh viên. Giảng viên có thể đặt câu hỏi và yêu cầu sinh viên cho biết các thuộc tính của đường, các thuộc tính của muối. Khi ấy sinh viên sẽ nêu ra được các thuộc tính vốn có của đường, của muối bởi vì đây là những thứ rất gần gũi với các em. Tiếp theo giảng viên đặt câu hỏi: Thuộc tính nào của đường, muối giúp ta phân biệt đâu là đường, đâu là muối? Với câu hỏi này, sinh viên hoàn toàn đưa ra được câu trả lời chính xác. Thuộc tính ngọt là chất của đường, thuộc tính mặn là chất của muối. Đến đây, giảng viên có thể yêu cầu sinh viên đưa ra khái niệm về chất. Với sự dẫn dắt của giảng viên, từ khái niệm trừu tượng, khó hiểu thành những thứ đơn giản, cụ thể, gần gũi thì hoàn toàn sinh viên có thể hiểu sâu sắc, nắm vững bản chất các khái niệm triết học tưởng chừng rất trừu tượng.
- Hai là, sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ trong dạy học
Giảng viên có thể sử dụng công nghệ thông tin thiết kế các sơ đồ giới thiệu vị trí của bài học, mục tiêu bài học, tổng kết nội dung bài học…
Công nghệ thông tin có thể giúp giảng viên thiết kế các mô hình mô phỏng những nội dung kiến thức trừu tượng thành những mô hình trực quan, qua đó giúp sinh viên tiếp thu kiến thức dễ dàng. Giảng viên có thể thiết kế các mô hình động hoặc chiếu những đoạn video minh hoạ cho một hiện tượng, một quá trình nào đó có tính quy luật qua đó tạo hứng thú học tập cho sinh viên đồng thời giúp các em dễ hiểu, dễ nhớ nội dung kiến thức của bài học. Ví dụ, để minh hoạ sự biến đổi của lượng dẫn đến sự biến đổi của chất, giảng viên có thế chiếu cho các em xem một đoạn video về hiện tượng băng tan. Thông qua xem hiện tượng băng tan các em tận mắt thấy được sự biểu hiện của quy luật lượng - chất, từ đó giảng viên có thể dễ dàng giảng giải cho sinh viên hiểu đâu là sự biến đổi của lượng, đâu là sự biến đổi của chất. Hay để diễn tả sự biến đổi của lượng (về tốc độ vận động, về quy mô, về giới hạn...) khi chất mới ra đời, giảng viên có thể thiết kế mô hình sự vận động của phân tử nước ở ba trạng thái khác nhau về chất (đá, lỏng, hơi) để sinh viên so sánh.
- Ba là, sử dụng tục ngữ, thành ngữ, ca dao phù hợp nội dung bài học trong giảng dạy
Tục ngữ, thành ngữ, cao dao tuy không phải là triết học nhưng về phương diện nào đó nó rất gần gũi với triết học. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao được làm ra với mục đích triết lý, luôn luôn cố gắng phát hiện ra bản chất và tính quy luật của các sự vật và hiện tượng tự nhiên, xã hội và đời sống con người. Do đó nhiều người gọi tục ngữ, thành ngữ, ca dao là "triết lý dân gian", "triết học của nhân dân lao động". Điều đó được thể hiện ở chỗ trong nội dung tục ngữ, thành ngữ, ca dao có chứa đựng những yếu tố của tư tưởng triết học. Ví dụ, khi giảng về mối quan hệ giữa lượng và chất, giảng viên có thể sử dụng những câu tục ngữ, thành ngữ biểu thị điều này: “Quá mù ra mưa”, “Tốt quá hoá lốp”, “Già néo đứt dây”, “Mèo già hoá cáo”, “Góp gió thành bão, góp cây nên rừng”, “Tích tiểu thành đại”, “Năng nhặt chặt bị”, “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”…
- Bốn là, chỉ ra ý nghĩa bài học với thực tiễn cuộc sống
Nhiều sinh viên cho rằng triết học rất trừu tượng. Triết học trở nên trừu tượng với sinh viên khi kiến thức bài học triết học chưa gắn với thực tiễn cuộc sống, các em chưa thấy được giá trị của nó. Vì thế mà hứng thú học tập triết học của các em cũng kém. Để các em hứng thú với tri thức triết học nói chung và các quy luật cơ bản của phép biện chứng nói riêng thì mỗi bài học giảng viên cần có những liên hệ với những vấn đề của thực tiễn cuộc sống đang diễn ra, những vấn đề lên quan trực tiếp tới các em. Từ đó, các em thấy được cái hay, giá trị của tri thức triết học, có hứng thú trong học tập. Ví dụ khi học xong quy luật lượng chất giảng viên có thể thuyết trình ý nghĩa quy luật này đối với các em trong học tập, trong rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, trong ứng xử…
Giảng dạy triết học, trong đó giảng dạy các quy luật cơ bản của phép biện chứng là vấn đề khó. Để nâng cao hiệu quả trong giảng dạy, giảng viên phải không ngừng tìm tòi, đổi mới, sáng tạo, rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy, học tập đồng nghiệp, học cái mới, tự đổi mới bản thân mình. Khi chúng ta nỗ lực cố gắng không ngừng và có tình yêu nghề thì nhất định sẽ chinh phục được những đỉnh cao.