Thạc sĩ Vương Thị Luận: Khoa Bộ môn chung
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Học sinh THCS đang trong lứa tuổi thiếu niên, lứa tuổi mà nhân cách đang có nhiều biến chuyển mạnh, đánh dấu thời kì phát triển quan trọng nhất trong cuộc đời của mỗi người; thời kì này bao gồm những biến đổi sâu sắc về sinh lí, tâm lí và xã hội của đứa trẻ, giúp các em dần hòa nhập với thế giới của người trưởng thành (Đỗ Thị Hạnh Phúc, 2007). Chính vì vậy, đây là giai đoạn các em có những băn khoăn, lo lắng và dễ bị mất tập trung trong quá trình học tập; tâm lí thất thường, ít gần gũi bố mẹ và người lớn trong gia đình (Lý Minh Tiên và Nguyễn Thị Tứ, 2012).
Xã hội ngày càng phát triển trên mọi lĩnh vực nên thanh thiếu niên cũng có nhiều điều kiện thuận lợi trong cuộc sống và học tập. Các em được cha mẹ chăm sóc đặc biệt, các nhà trường cũng quan tâm đầu tư, tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất cho các em được học tập trong một môi trường học tập tốt nhất. Tuy nhiên, trong những điều kiện phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, những thay đổi của các điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội đã ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống, cách ứng xử, giao tiếp của lứa tuổi thanh thiếu niên. Bên cạnh đó, một số cha mẹ do quá bận với công việc, không dành nhiều thời gian quan tâm đến các em, khiến cho các em ham chơi, lười học và dễ sa đà vào các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách. Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm giúp trẻ phát triển nhân cách một cách toàn diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ xã hội phức tạp. Do vậy, việc giáo dục nói chung và giáo dục trẻ nói riêng luôn đòi hỏi sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ của nhiều lực lượng xã hội, trong đó gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi gia đình là nền tảng cho trẻ lớn lên, hình thành và phát triển nhân cách.
Trong bài báo này, chúng tôi trình bày một số đặc điểm của HS THCS, các yếu tố cơ bản tác động đến cha mẹ trong việc giáo dục con cái ở độ tuổi THCS và đề xuất một số biện pháp giúp cha mẹ giáo dục con trong độ tuổi HS THCS.
2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP CHA MẸ GIÁO DỤC CON Ở ĐỘ TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
2.1. Một số đặc điểm của học sinh trung học cơ sở
HS THCS là lứa tuổi thiếu niên từ 11-15 tuổi (học lớp 6 đến lớp 9 ở trường THCS), là giai đoạn phát triển tâm, sinh lí đầy biến động, là giai đoạn khó khăn, phức tạp và đầy mâu thuẫn trong quá trình phát triển của một con người. Tham khảo các nghiên cứu của Lý Minh Tiên và Nguyễn Thị Tứ (2012), Mai Văn Hưng và Kiều Cẩm Nhung (2016), chúng tôi nhận thấy, HS THCS có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Sự phát triển về sinh lí: Về đặc điểm sinh lí của HS THCS có tốc độ phát triển cơ thể rất nhanh, mạnh, nhưng không đồng đều về mọi mặt, đồng thời xuất hiện hiện tượng dậy thì đánh dấu sự trưởng thành. Ở lứa tuổi này, HS diễn ra sự biến đổi rất mạnh mẽ và sâu sắc về cơ thể, về sinh lí, đây là giai đoạn bứt phá lần thứ hai trong cuộc đời, sau giai đoạn sơ sinh. Chiều cao ở độ tuổi này tăng lên một cách đột ngột, xương phát triển hơn cơ.
-Về sự phát triển về tâm lí: Tuổi thiếu niên có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kì phát triển của trẻ, vì đây là thời kì chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kì quá độ“, “tuổi khó bảo“, “tuổi khủng hoảng”,… Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn (người trưởng thành) tạo nên sự khác biệt trong mọi mặt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, nhân cách,…
- Về trí nhớ: HS THCS có nhiều phát triển trong việc ghi nhớ những kiến thức trừu tượng. Các em có những kĩ năng tổ chức hoạt động tư duy, biết tiến hành các thao tác như so sánh, hệ thống hóa, phân loại nhằm ghi nhớ kiến thức. Ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ cho ghi nhớ logic, ghi nhớ ý nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn.
Chính sự phát triển nhảy vọt cả về mặt sinh lí và tâm lí, nên ở lứa tuổi này HS có cảm giác mình là người lớn, có nhu cầu mạnh mẽ được khẳng định mình, được độc lập trong cuộc sống. Chính vì vậy mà ở giai đoạn này, trẻ cũng dễ gặp nhiều khó khăn về tâm lí, ảnh hưởng phần nào đến đời sống và học tập. Khi đó, gia đình cần có sự thấu hiểu đối với các em, giúp các em vượt qua giai đoạn “khủng hoảng” về tâm lí ở lứa tuổi HS THCS.
2.2.Một số yếu tố tác động đến cha mẹ trong việc giáo dục con ở độ tuổi trung học cơ sở
Xuất phát từ thiện tiễn và tham khảo các nghiên cứu của Ptrovxki (1982), Đặng Phương Kiệt (2001), chúng tôi nhận thấy một số yếu tố cơ bản sau tác động đến cha mẹ trong việc giáo dục con ở độ tuổi HS THCS:
- Về kinh tế: Trong điều kiện phát triển xã hội như hiện nay, đòi hỏi mỗi một gia đình cần có những điều kiện kinh tế nhất định nhằm trang bị cho con các phương tiện, điều kiện phục vụ sinh hoạt, đi lại, học tập, vui chơi... Nếu không có kinh tế, cha mẹ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tạo các điều kiện cơ bản nhất để phục vụ việc học tập của con.
- Về thời gian: Không ít cha mẹ bị cuốn vào guồng quay của công việc nên thời gian dành cho con ngày càng bị thu hẹp. Thời gian dành cho trẻ quá ít cũng là một trong những khó khăn trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Để hiểu và giáo dục con tốt, cha mẹ cần phải dành một khoảng thời gian nhất định cho con, quan tâm con trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên trong thực tiễn hiện nay, cha mẹ dành rất nhiều thời gian cho công việc mà có rất ít thời gian để chăm sóc, giáo dục con em mình. Bên cạnh đó, có nhiều cha mẹ quan niệm rằng, đáp ứng đầy đủ cho trẻ về mặt vật chất và cho trẻ học trường quốc tế, trường chất lượng cao là cách giáo dục cho trẻ tốt nhất mà không dành thời gian để quan tâm đến con, hỗ trợ kịp thời những khó khăn của trẻ trong học tập và cuộc sống.
- Kĩ năng nắm bắt tâm lí của trẻ: Nắm bắt được tâm lí của con sẽ giúp cha mẹ giáo dục con hiệu quả. Nếu không nắm được tâm lí của con, không hiểu trẻ thực sự mong muốn gì, cha mẹ sẽ gặp những khó khăn trong giáo dục con. Ở độ tuổi từ 11-15 là khoảng thời gian trẻ đang học làm người lớn, tuy nhiên trẻ lại chưa có đủ khả năng để phân biệt những biểu hiện về quy tắc, đạo đức tốt hoặc xấu, điều này gây rất nhiều khó khăn cho cha mẹ trong việc nắm bắt tâm lí trẻ. Thực tế ngày nay, nhiều cha mẹ đã không hiểu rõ và nắm bắt được sự thay đổi tâm lícủa trẻ, đặc biệt là ở lứa tuổi dậy thì. Khi thấy con bướng bỉnh, buồn chán, ủ rũ, nhiều người còn cho rằng con hư hỏng, lười học. Sự vô tâm và thiếu sự thấu hiểu của cha mẹ đôi lúc cũng là yếu tố khiến cho trẻ gặp phải nhiều các vấn đề về tâm lí. Bên cạnh đó, cha mẹ đôi lúc cũng quá khắt khe với con cái, kiểm soát quá mức sự riêng tư của trẻ; cách giáo dục này đôi khi không mang lại nhiều lợi ích mà còn khiến trẻ cảm thấy ngột ngạt, sợ hãi và dần tìm cách xa lánh cha mẹ (Bộ GD-ĐT, 2017).
- Kĩ năng sử dụng các phương tiện cộng nghệ thông tin: Trong xã hội ngày nay, các phương tiện thông tin như máy tính, ti vi, điện thoại, phát triển rất mạnh mẽ. Trẻ được tiếp xúc những phương tiện này từ rất sớm, dẫn đến cha mẹ sẽ không kiểm soát được hết lượng thông tin mà trẻ tiếp nhận trên mạng xã hội. Bên cạnh đó, nhiều cha mẹ còn thiếu kĩ năng sử dụng các phương tiện thông tin nên cho rằng cách tốt nhất để phát triển nhân cách cho trẻ đó là không cho trẻ tiếp xúc với mạng xã hội và điện thoại từ sớm, tuy nhiên cách làm này cũng không phải là một phương pháp tối ưu, có nhiều mặt hạn chế và dễ gây xung đột giữa cha mẹ và trẻ. Do vậy, cha mẹ nên tham gia giám sát, định hướng cho con trong việc lựa chọn các nội dung, thời gian sử dụng trên các phương tiện công nghệ thông tin sao cho hiệu quả, phù hợp. Bởi nếu khai thác nguồn tài nguyên trên Internet một cách khoa học, sẽ hỗ trợ cho trẻ rất nhiều trong học tập.
- Phương pháp giáo dục con: Ở độ tuổi này, trẻ có nhiều thay đổi cả về mặt tâm lí và sinh lí, vì vậy không ít cha mẹ gặp khó khăn trong việc lựa chọn phương pháp giáo dục con. Chẳng hạn như: khi trẻ mắc lỗi hay làm sai, cha mẹ không nên quát mắng hay đánh con mà hãy bình tĩnh nghe con trình bày sự việc, sau đó phân tích cặn kẽ từng vấn đề, đúng, sai cho trẻ hiểu để trẻ nhận thức được hành động vừa làm sai ở điểm gì. Nếu dùng đòn roi, trẻ sẽ dễ nảy sinh tâm lí tiêu cực, càng ương bướng, khó bảo. Có nhiều cha mẹ chưa phân tích, tìm hiểu kĩ về việc làm của con, đã vội la mắng trẻ. Những hành động ấy vô tình càng làm trẻ sợ, dẫn đến việc nói dối hoặc không chịu trách nhiệm về những việc mình đã làm. Do vậy, cha mẹ cần tham khảo và tự trau dồi các kĩ năng để có phương pháp giáo dục con phù hợp và khoa học.
2.3. Một số biện pháp giúp cha mẹ giáo dục con trong độ tuổi học sinh trung học cở sở
2.3.1. Cha mẹ cần sắp xếp thời gian phù hợp để đồng hành cùng con
- Mục đích của biện pháp: Nhằm nắm bắt tâm tư, tình cảm, năng lực, sở thích, ước mơ và phát hiện những biểu hiện tiêu cực của con để có sự uốn nắn kịp thời.
- Cách thức thực hiện biện pháp: Để thực hiện biện pháp này, cha mẹ có thể triển khai theo các hướng sau:
+ Xây dựng kế hoạch, lịch trình cụ thể trong ngày hoặc những thời điểm quan trọng dành thời gian cho con. Nếu đặc thù công việc bận rộn, cha mẹ cần phân chia dành thời gian cho con mỗi ngày để đồng hành cùng con ít nhất 2-3 tiếng. Để việc giáo dục con có hiệu quả tốt, cha mẹ cần xây dựng nề nếp sinh hoạt khoa học và dành thời gian thích hợp để chia sẻ, tìm hiểu những khó khăn cũng như tâm tư, nguyện vọng của con. Ví dụ: Cha mẹ có thể cùng con tham gia các hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí, cùng nấu ăn và đồng hành cùng con trong học tập. Đặc biệt trong các kì thi, hoạt động quan trọng của con thì cha mẹ cần nắm rõ lịch trình, tạo điều kiện về thời gian, tinh thần, sức khỏe cho con; nếu cha mẹ có kiến thức về môn học có thể dạy con học, hướng dẫn cách học phù hợp để con tham gia kì thi hiệu quả.
+ Xây dựng nề nếp sinh hoạt khoa học và dành thời gian thích hợp để chia sẻ, tìm hiểu những khó khăn cũng như tâm tư, nguyện vọng của con. Tạo các không gian sinh hoạt chung vào một thời điểm nhất định trong ngày để trò chuyện gần gũi, quan sát, trao đổi cởi mở với con, qua đó hiểu con hơn.
+ Luôn tìm hiểu, chia sẻ với con để nắm bắt những thay đổi, tâm tư, nguyện vọng, sở thích và những nhu cầu của các con. Một mặt tôn trọng và đáp ứng hợp lí những nhu cầu chính đáng của trẻ, đồng thời cần ngăn chặn kịp thời những suy nghĩ, hành động tự do mất phương hướng, những cám dỗ, cạm bẫy mà các em có thể gặp phải; giúp các em tháo gỡ những băn khoăn, lo lắng, lúng túng, những khủng hoảng về tâm lí trong giai đoạn này. Qua đó, xây dựng được mối liên kết mật thiết giữa cha mẹ và con cái.
2.3.2. Phối hợp chặt chẽ với nhà trường
- Mục đích của biện pháp: Nhằm giúp cha mẹ nắm được nội dung chương trình học tập, các phương pháp giáo dục, yêu cầu của nhà trường trong công tác phối hợp, để cùng nhà trường giáo dục trẻ phát triển nhân cách toàn diện.
- Cách thức thực hiện biện pháp: Nhà trường được coi là chiếc nôi thứ hai sau gia đình, có nhiệm vụ nuôi dưỡng, bảo ban, giúp trẻ hoàn thiện và phát triển nhân cách. Nếu trẻ được hình thành nhân cách từ trong gia đình thì nhà trường sẽ bồi đắp, dung dưỡng để nhân cách ấy trở nên tốt đẹp, để các em sẽ trở thành công dân tốt trong tương lai. Do vậy, cha mẹ cần phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục trẻ thông qua việc thường xuyên liên hệ chặt chẽ với nhà trường, GV chủ nhiệm để nắm được tình hình học tập, mối quan hệ với bạn bè, thầy cô của con nhằm có sự hỗ trợ cũng như giúp trẻ tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, khó khăn trong học tập, trong các mối quan hệ, đặc biệt là tình yêu tuổi học trò. Cha mẹ cần nâng cao nhận thức về đặc điểm phát triển tâm sinh lí lứa tuổi và tác động của những thay đổi đó đối với HS; quan tâm, phát hiện và có biện pháp hỗ trợ kịp thời, phù hợp đối với những biểu hiện bất thường của HS.
2.3.2. Giáo dục giới tính cho con
- Mục đích của biện pháp: Nhằm giúp trẻ có nhận thức đầy đủ, có thái độ đúng đắn về giới tính và quan hệ giới tính, hướng hoạt động của trẻ vào việc rèn luyện để phát triển nhân cách toàn diện, biết tổ chức tốt cuộc sống của cá nhân.Giáo dục giới tính là một vấn đề cấp bách đối với HS THCS trong giai đoạn hiện nay, góp phần giáo dục sức khỏe sinh sản, giáo dục về tình yêu, hôn nhân và gia đình, giáo dục thái độ tôn trọng đối với những người khác giới,...
- Cách thức thực hiện biện pháp:
``Trong điều kiện kính tế, xã hội phát triển mọi mặt như hiện nay, để trẻ có thể đối mặt với các vấn đề đặc thù của lứa tuổi, tránh được những cám dỗ và thách thức của xã hội, chúng ta cần phải đảm bảo cho trẻ được cung cấp đầy đủ thông tin, kĩ năng cần thiết về giới tính. Do vậy, cha mẹ cần kết hợp với nhà trường trong việc trang bị cho HS THCS về nhận thức giới tính để định hình nhân cách, tạo sức mạnh nội tâm đề kháng trước những vấn đề có thể gây hại cho bản thân. Cha mẹ cần nắm được các yêu cầu cơ bản của giáo dục giới tính như:
``- Yêu cầu về lứa tuổi: giáo dục giới tính là một lĩnh vực phức tạp, cần căn căn cứ vào lứa tuổi để có những biện pháp tác động thích hợp, có mục tiêu và nội dung tri thức khác nhau, phải căn cứ vào lứa tuổi để có những biện pháp tác động thích hợp;
` - Tính liên tục: Tính liên tục ở đây là những hệ thống mang tính liên thông với nhau. Mỗi hệ thống được các em đón nhận để chuẩn bị khả năng tư duy tốt hơn, cao hơn;
`- Tính logic: Tính logic đảm bảo cho sự phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa toàn diện đến toàn diện hơn.
Giáo dục giới tính kịp thời sẽ giúp trẻ tránh được những cái nhìn sai lệch, hiểu rõ bản thân và các vấn đề đang gặp phải. Cha mẹ có thể giáo dục giới tính cho con thông qua một số hướng sau:
Tìm hiểu kiến thức về giới tính thông qua các tài liệu chính thống, mạng Internet;
Trong sinh hoạt hàng ngày, cần tạo mối quan hệ gần gũi, trò chuyện cởi mở với con, giúp con biết phê phán, bác bỏ những quan niệm, nhận thức sai về giới tính và giáo dục giới tính; từ đó giúp con hình thành được những tri thức, quan niệm đúng đắn về sức khỏe sinh sản, các mối quan hệ tình cảm, về tình yêu, hôn nhân và gia đình, cách ứng xử và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi người, với người khác giới.
2.3.3. Tư vấn trong học tập
- Mục đích của biện pháp: Giúp trẻ có mục đích, động cơ học tập đúng đắn, thấy được ý nghĩa của việc học tập.
- Cách thực hiện biện pháp: Để có thể là nhà tư vấn tốt cho con trong học tập, cha mẹ cần:
+ Tạo động lực học tập cho trẻ, giúp các em tích cực, say mê và yêu thích học tập không chỉ vì được khen thưởng mà là để mở rộng kiến thức, phát triển và khẳng định bản thân. Để làm được điều này, cha mẹ không nên tạo sức ép, áp lực học tập cho trẻ.
+ Trao đổi, định hướng học tập cho con bằng những phân tích có cơ sở, sâu sắc, thuyết phục, không nên áp đặt cứng nhắc; từ đó tạo sự tin yêu, cảm thông sẻ chia về những khó khăn, áp lực học tập của con.
+ Tránh áp đặt suy nghĩ cho con: Một số cha mẹ cho rằng việc mình bắt con thực hiện theo định hướng của mình là tốt, chẳng hạn như bắt ép con học các môn học mà con không yêu thích, không phù hợp với năng lực.
+ Quan tâm đến việc học tập của con ở trường: Quan tâm đến việc học tập của con sẽ giúp cha mẹ nắm bắt được chương trình, nội dung môn học, các hoạt động và thời khóa biểu của con. Điều này sẽ giúp cha mẹ hỗ trợ, định hướng cho con về thời gian, phương pháp học tập phù hợp. Việc gắn kết giữa con với cha mẹ càng chặt chẽ thì với những thay đổi tâm sinh lí của con, cha mẹ sẽ giúp con vượt qua giai đoạn khủng hoảng của độ tuổi và những khó khăn trong học tập.
2.3.4. Giáo dục kĩ năng sống
- Mục đích của biện pháp: Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ tại gia đình sẽ góp phần giúp trẻ phát triển nhân cách toàn diện, có khả năng thích ứng với những biến đổi không ngừng của xã hội.
- Cách thức thực hiện biện pháp:
+ Tạo môi trường để trẻ được trải nghiệm các kĩ năng trong cuộc sống. Cụ thể: một số kĩ năng cần thiết cho HS ở giai đoạn này như kĩ năng xây dựng mục tiêu, kế hoạch và cố gắng hoàn thành, kĩ năng tự lập, kĩ năng ứng xử, giao tiếp, kĩ năng thích ứng với môi trường xung quanh, kĩ năng làm chủ cảm xúc, hành vi của bản thân, kĩ năng tự bảo vệ,…Bên cạnh đó, tùy thuộc vào vấn đề tâm lí, những khó khăn mà trẻ đang gặp phải mà cha mẹ sẽ có kế hoạch và lựa chọn nội dung phù hợp, giúp con có thể cải thiện tốt về cả hành vi, nhận thức và thái độ.
+ Rèn kĩ năng sống thông qua các sinh hoạt hàng ngày tại gia đình, tạo cơ hội để trẻ được tiếp xúc với nhiều tình huống, công việc khác nhau với các yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể cụ thể; khuyến khích con tham gia các hoạt động của gia đình như: nấu cơm cùng gia đình, dọn dẹp, trang trí nhà cửa, quan tâm, chăm người thân trong gia đình (em nhỏ, người lớn tuổi, người bị ốm),...Qua đó, giúp trẻ được trang bị các kĩ năng mềm cần thiết. Đặc biệt, khi được trang bị đầy đủ các kĩ năng cần thiết để phục vụ cho cuộc sống và việc học tập sẽ giúp các em chủ động, có tinh thần trách nhiệm và tránh bị phụ thuộc quá nhiều vào thầy cô và cha mẹ.
+ Rèn luyện một số kĩ năng khác cho con như: kĩ năng tự phục vụ bản thân, kĩ năng xác lập mục tiêu cuộc đời, kĩ năng quản lí thời gian hiệu quả, kĩ năng điều chỉnh và quản lí cảm xúc, kĩ năng giao tiếp và ứng xử, kĩ năng hợp tác và chia sẻ, kĩ năng đối diện và ứng phó với những khó khăn trong cuộc sống,...
2.3.5. Hiểu được tâm lí, mong muốn của trẻ
- Mục đích: Hiểu tâm lí và mong muốn của con sẽ giúp cha mẹ có các biện pháp giáo dục phù hợp, tránh mắc phải những sai lầm trong dạy con.
- Cách thức thực hiện biện pháp: Để thực hiện biện pháp này, các bậc cha mẹ cần:
+ Trang bị kiến thức về tâm lí của trẻ trong độ tuổi thông qua sách báo, các chương trình truyền hình, trò chuyện với các chuyên gia hoặc những người có kinh nghiệm;
+ Luôn lắng nghe, đặt bản thân vào vị trí của con để thấu hiểu;
+ Chú ý đến những sở thích, mong muốn của con. Việc quan tâm đến điều này sẽ giúp cha mẹ xây dựng được mối quan hệ tin cậy, từ đó hiểu rõ tâm tư, nguyên vọng của con để có những định hướng, phương pháp giáo dục phù hợp;
+ Khích lệ và động viên kịp thời trước những tiến bộ, kết quả đạt được của con;
+ Trước những lỗi lầm của con, cha mẹ nên tìm hiểu kĩ nguyên nhân, giúp con ý thức được mức độ và hậu quả từ hành vi của bản thân. Chính việc bố mẹ kiểm soát được cơn nóng giận sẽ là tấm gương giúp trẻ học được cách quản lí cảm xúc. Nếu cha mẹ không hiểu rõ và nắm bắt tốt được tâm lí của con cái, đặc biệt là lứa tuổi dậy thì; khi thấy con bướng bỉnh, buồn chán, ủ rũ nhiều người còn cho rằng con hư hỏng, lười học. Sự vô tâm và thờ ơ của cha mẹ đôi khi sẽ là yếu tố khiến cho trẻ gặp phải rất nhiều các vấn đề về tâm lí. Cha mẹ đôi lúc cũng không nên quá khắt khe với con cái, cấm đoán và kiểm soát quá mức về sự riêng tư của trẻ. Bởi cách giáo dục này đôi khi không mang đến nhiều lợi ích mà còn khiến cho trẻ cảm thấy ngột ngạt, sợ hãi và dần tìm cách xa lánh cha mẹ (Lê Thị Lan, 2019).
3. Kết luận
Giáo dục con trong độ tuổi THCS là một trong những hoạt động gặp rất nhiều khó khăn và thách thức. Để giáo dục trẻ hiệu quả, cha mẹ cần phối hợp chặt chẽ với nhà trường, thường xuyên trao đổi thông tin về con mình, nâng cao nhận thức của bản thân về đặc điểm phát triển tâm sinh lí lứa tuổi và tác động của những thay đổi đó đối với trẻ; thường xuyên quan tâm, phát hiện và có biện pháp hỗ trợ kịp thời, phù hợp đối với những biểu hiện bất thường của trẻ (Bộ GD-ĐT, 2017). Kết quả nghiên cứu của bài báo nhằm giúp cha mẹ có những hiểu biết nhất định về đặc điểm tâm, sinh lí của trẻ, cần dành thời gian làm bạn và quan tâm đến trẻ, có những biện pháp giáo dục phù hợp để đồng hành cùng con bước qua giai đoạn khủng hoảng của tuổi dạy thì và thích ứng với những hình thức, phương pháp học tập mới ở trường THCS và sự phát triển của xã hội.
Tài liệu tham khảo
[1]``Bộ GD-ĐT (2017). Thông tư số số 31/2017/TT-BGDĐT ngày 18/12/2017 về việc hướng dẫn thực hiện công tác tư vấn tâm lí cho học sinh trong trường phổ thông.
[2] Đặng Phương Kiệt (2001). Cơ sở tâm lí học ứng dụng. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[3] Đỗ Thị Hạnh Phúc (2007). Tìm hiểu những khó khăn tâm lí ở học sinh trung học cơ sở.Tạp chí Khoa học Giáo dục, 27, 15-19.
[4] Lê Thị Lan (2019). Thực trạng một số khó khăn tâm lí của học sinh trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Thanh Hóa hiện nay. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 10, 136-139; 87
[5] Lý Minh Tiên, Nguyễn Thị Tứ (chủ biên, 2012). Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học Sư phạm.NXB Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
[6] Mai Văn Hưng, Kiều Cẩm Nhung (2016). Một số đặc điểm tâm lí và sinh lí tuổi dậy thì của học sinh trung học cơ sở Hà Nội. Tạp chí Giáo dục, 374, 14-16.
[7] Ptrovxki, A. V. (1982). Tâm lí học Lứa tuổi và Tâm lí học Sư phạm. NXB Giáo dục