A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Biểu tượng nghệ thuật trong lời ca Quan họ Bắc Ninh - những thông điệp giầu ý nghĩa

Ths.Nguyễn Thị Hồng Nhung - Phòng Đào tạo

I. Đặt vấn đề

Jean Chevalier, tác giả của Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới từng nhận xét rằng: Nói chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng thì vẫn còn chưa đủ, phải nói một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta [1]. Biểu tượng là một phần quan trọng không thể thiếu trong đời sống tinh thần nhân loại. Ngày nay, nghiên cứu biểu tượng đã và đang trở thành lĩnh vực được nhiều nhà khoa học ở nhiều ngành khác nhau đặc biệt quan tâm. Thế giới biểu tượng nói chung góp phần không nhỏ trong quá trình hình thành và phát triển của một cộng đồng, một dân tộc. Biểu tượng mang lại những đặc sắc về văn hóa cho mỗi quốc gia. Mỗi một nền văn hóa trên thế giới này đều là sự tổng hòa của các hệ thống biểu tượng.

II. Nội dung

1. Biểu tượng và biểu tượng nghệ thuật trong văn học dân gian

Xét từ góc độ văn hóa, mỗi một nền văn hóa được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau và một trong những yếu tố đó chính là biểu tượng. Trong cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, nhiều tác giả cho rằng: “Mọi nền văn hóa đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng trong đó xếp hàng đầu là ngôn ngữ, quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo... ” [1]. Với cách hiểu như vậy, biểu tượng chính là một trong những cơ sở để xác định đặc trưng của một nền văn hóa cũng như mối quan hệ của các nền văn hóa với nhau.

Ngoài những đặc điểm trên đây, ta thấy mỗi nền văn hóa khác nhau thì hệ thống biểu tượng cũng khác nhau, do đó biểu tượng dưới góc nhìn văn hóa còn mang tính ổn định tương đối. Như ta đã biết, cấp độ đầu tiên của biểu tượng là “mẫu gốc”. Khi đi vào đời sống văn hóa, mỗi mẫu gốc có thể sản sinh ra những biểu tượng văn hóa khác nhau như trong thần thoại, truyền thuyết, lễ nghi, phong tục tập quán. Vì vậy, biểu tượng dưới góc nhìn văn hóa luôn mang đậm hơi thở của dân tộc, của thời đại.

Các nhà nghiên cứu lí luận văn học cho rằng: Biểu tượng là phương tiện tạo hình và biểu đạt có tính đa nghĩa trong tác phẩm văn học. Trong lĩnh vực thơ ca, biểu tượng chính là một trong những phương tiện biểu đạt có hiệu quả. M. Bakhin đã coi biểu tượng chính là đặc trưng khu biệt quan trọng nhất của các tác phẩm trữ tình với tiểu thuyết: Chính sự vận động của biểu tượng thi ca sẽ giả định phải có một ngôn ngữ thống nhất, tương hợp trực tiếp với đối tượng của mình [2].

Biểu tượng xuất hiện trong văn học dân gian như những hình ảnh ẩn dụ đã được ý thức cộng đồng chấp nhận, sử dụng rộng rãi, phổ biến mà mang đặc điểm văn hóa truyền thống của cộng đồng… Trong thơ ca dân gian, những biểu tượng được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh khách quan từ thiên nhiên, cuộc sống lao động sinh hoạt hằng ngày của người lao động. Nó được tập thể người lao động tham gia sáng tạo, bổ sung, cải biến. Ví dụ: biểu tượng trầu - cau; cây đa-bến nước; dòng sông-con đò…

2. Biểu  tượng nghệ thuật trong lời ca Quan họ Bắc Ninh - những thông điệp giầu ý nghĩa

            Quan họ có hệ thống làn điệu đạt tới một trình độ riêng, đáp ứng những nhu cầu văn hóa, nghệ thuật hiện đại có nhiều nét riêng của sinh hoạt văn hóa Quan họ. Nhưng cũng như phần nhạc, phần lời ca Quan họ đã du nhập, thu hút tinh hoa của kho tàng thơ ca dân gian, dân tộc. Để có những lời ca mượt mà đó, các nghệ nhân Quan họ, ngoài những sáng tác của họ là chủ yếu, đã biết khai thác các lời ca từ văn học dân gian, đó là thơ, ca dao Việt Nam và của các Truyện Nôm. Những bài ca Quan họ được sáng tạo ngẫu hứng trong các kỳ hội làng, hoặc ứng tác ngay trong một canh hát, một cuộc thi tranh giải của làng. Dân ca Quan họ phản ánh cuộc sống sinh hoạt, phong tục tập quán và cả tâm tư, tình cảm của người dân xứ Kinh Bắc. Những vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn con người, vẻ đẹp của tình yêu, nỗi nhớ, niềm thương trong lời ca Quan họ được chuyển tải một cách khéo léo, tinh tế bằng thứ ngôn từ giàu tính ẩn dụ và đặc biệt là bằng hệ thống biểu tượng phong phú, đa nghĩa.

2.1 Biểu tượng “thân lươn”, “cánh bèo” diễn tả thân phận bé mọn, cô đơn, cam chịu của những kiếp người trong xã hội xưa

Ngay từ buổi sơ khai của văn học dân gian với những câu ca dao, dân ca chúng ta đã thấy các nghệ nhân văn học dân gian đã mượn những hình ảnh nhỏ bé như: “con ong”, “cái kiến”, “cánh bèo”, “còn cò”, “con hạc”, “thân em như con kiến”, “thân em như hạt mưa sa”... để nói về thân phận con người. Những biểu tượng cho then phận bé mọn của kiếp người nghèo dưới đáy xã hội này cũng xuất hiện nhiều trong lời ca Quan họ.

Biểu tượng “thân lươn” tuy chỉ được dùng trong một bài ca Quan họ cổ nhưng vẫn gây ám ảnh cho người thưởng thức khi nghe các liền anh, liền chị ca bài này. Từ thực tế loài lươn là động vật chuyên sống trong bùn lầy, với lớp da trơn, di chuyển bằng cách bò trườn và khi bị làm cho đau thường quằn thân mình lên… khiến ta hình dung về cuộc sống nhục nhã, đau đớn, bị áp bức với đầy rẫy bất công của những kiếpngười dưới đáy xã hội:

“Thân lươn bao quản lấm đầu.
Tính toán nữa làm chi, tính toán làm gì,
Yêu nhau trò chuyện vân vi,
Kẻo mai tiếng bấc, tiếng chì lại bảo tại em”.

Hình ảnh cánh bèo trôi nổi trên ao, đầm, sông , hồ rất quen thuộc với người dân đất nước nông nghiệp như Việt Nam. Bèo là loại thực vật gần như không có giá trị, chỉ dùng để làm mát ao hồ cho tôm, cá hoặc làm thức ăn cho gia súc, gi cầm. Ngay từ bèo khi phát âm đồng nghĩa với sự rẻ rúm (rẻ như bèo, giá bèo). Gần gũi với người dân, có giá trị thấp và nó còn có đặc tính rất nổi bật là trôi nổi vô định. Vì vậy, khi đi vào lời ca Quan họ nó trở thành biểu tượng của số phận nhỏ nhoi, bất định, nổi nênh, không biết đi đâu về đâu. Đó là thứ tình cảm bơ vơ, cô đơn, chờ đợi mỏi mòn: “Bèo dạt, mây trôi/ Chốn xa xôi…/Anh ơi, em vẫn đợi…/ Bèo dạt…

2.2. Biểu tượng “cây trúc”, “vầng trăng”, “con đò” - phẩm chất bình dị, tình cảm mộc mạc, đằm thắm, thiết tha của người Quan họ

            Có những biểu tượng đã quen thuộc và được khẳng định giá trị nghệ thuật trong thơ ca và nghệ thuật tạo hình từ rất sớm, ví dụ biểu tượng cây trúc trong thơ ca và hội hoạ, điêu khắc... từ nhiều thế kỷ. Biểu tượng cây trúc thường xuất hiện trong thơ ca xưa là biểu trưng cho cốt cách, phẩm chất của người quân tử: cứng rắn, vươn thẳng, sức sống dẻo dai, bền vững trước mọi thử thách; ý chí kiên định “Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng” (Nguyễn Trãi); nhân cách thanh cao... “Dáng buồn như trúc, điệu gầy như mai” (Nguyễn Du). Nhưng biểu tượng cây trúc trong lời ca Quan họ lại gợi lên cảm giác gần gũi, thân quen, khiến  người đọc, người nghe liên tưởng đến những chàng trai, cô gái thôn quê với tình cảm  mộc mạc, bình dị những vẫn thiết tha, sâu lắng:

Hôm nay xum họp trúc mai 
Tình trong một khắc, nghĩa dài trăm năm...

Người như trúc mọc ngoài trời.

Hoặc:

Trúc xinh trúc mọc sân đình 
Anh (Hai) xinh anh (Hai) đứng một mình cũng xinh 
Trúc xinh trúc mọc bờ ao 
Anh (Ba) xinh anh (Ba) đứng nơi nào cũng xinh 
Trúc xinh trúc mọc đầu chùa. 
Không yêu em lấy đạo bùa phải yêu.

Người Quan họ đã dành cả một bài ca cho trúc, không phải cho trúc quân tử mà cây trúc xinh, cây trúc gần gũi, đáng yêu, quen thuộc, biểu tượng cho anh Hai, anh Ba, chị Hai, chị Ba... xinh, “đứng một mình cũng xinh”, “đứng nơi nào cũng xinh”. Có thể thấy, mặc dù biểu tượng “cây trúc” trong lời ca Quan họ không phải là một phát hiện mới (đã xuất hiện nhiều trong thơ ca cổ). Nhưng điểm sáng tạo độc đáo, mới lạ của “cây trúc” trong lời ca Quan họ là nó biểu trưng cho vẻ đẹp phẩm chất, tình cảm của người bình dân: vừa mộc mạc, vừa tha thiết, vừa chân thành, vừa mãnh liệt: “Không yêu em lấy đạo bùa (cho) phải yêu”.

Không chỉ có cây trúc, vầng trăng, con đò, con thuyền cũng là những biểu tượng đẹp, giàu ý nghĩa trong lời ca Quan họ. Một quê hương sông nước, đồng chiêm, hết thế hệ này đến thế hệ khác gắn bó với những chiếc đò ngang, đò dọc, những chiếc thuyền thúng suốt mùa mưa úng, những chiếc thuyền buôn trên nhiều ngả sông xuôi ngược... đã khiến con đò, con thuyền trên sóng nước đi vào cảm hứng nghệ thuật và trở thành biểu tượng gửi gắm biết bao nỗi niềm tâm sự về thân phận con người, về cuộc đời. Kết quả khảo cứu cho thấy, biểu tượng con đò, con thuyền có trong 63 bài Quan họ.

Có khi thuyền như người bạn tri âm trong những đêm "trăng in mặt nước" để cùng người bồng bềnh trên sông nước quê hương, thưởng thức những thú vui tao nhã:

Ngồi tựa mạn thuyền 
Trăng in mặt nước càng nhìn non nước càng xinh

Có khi thuyền, đò hiện lên như biểu tượng về một sự "mong manh" trong cuộc đời "bãi biển mông mênh" để cho người chờ, người đợi, người gọi... và người tin con đò kia sẽ đến, vẫn "nhất tâm đợi chờ, dù "gọi đò chẳng thấy đò thưa" trong suốt cả bài ca "Gọi đò".

Có khi thuyền, đò, bè mảng là biểu tượng của một thân phận, một cuộc đời, một tình duyên... đi trong cuộc đời như đi trong một dòng sông nhiều nghềnh thác:

… Nhắn cùng bầu bạn xuống bè xuôi đông 
Lên thác (thì ai ơi) xuống ghềnh 
Lên thác đã vậy, xuống ghềnh thì sao? 
Có yêu nhau (thì) ngỏ cửa ra vào...

Ðể rồi dẫn đến những điều nhắn nhủ người thương về một phẩm chất cần có trong tình yêu nam nữ, tình bạn, tình người:

... Có yêu nhau (thì) nón cũng như dù... 
... Có yêu nhau (thì) đá cũng như vàng...

Cũng có khi "thuyền mở lái chèo, bắt lái chèo ra" được ví như con người vào đời để đi tìm hạnh phúc:

Thuyền mở lái chèo 
Bắt lái chèo ra 
Nhịp hai, anh Hai đi tìm vợ 
Nhịp ba, chị Ba đi tìm chồng 
Thương lấy nhau cùng 
Có mũi, có lái, như rồng có mây...

Thuyền, đò trong nước lặng, sóng yên thì ít mà trong sự nổi nênh, lênh đênh, chòng chành... thì nhiều. Tuy nhiên, sự chòng chành, lênh đênh của thuyền, đò trên sóng nước như con người đi trong cuộc đời nhiều ghềnh thác, nhưng người Quan họ không bi quan mà trái lại luôn có một niềm tin vững chắc vào tình người, tình đời: Có yêu nhau... thì đá cũng như vàng. Thuyền dẫu đi qua bao ghềnh thác, uộc đời dẫu có nhiều sóng gió nhưng người Quan họ sẵn sàng vượt qua bởi lẽ:

Muốn cho gần bến gần thuyền 
Gần thày, gần mẹ nhân duyên cũng gần...

2.3. Biểu tượng “chén nước”, “miếng trầu” và tình người Quan họ

Nhạc sĩ Trần Tiến, trong một sáng tác của mình đã viết: “Người Bắc Ninh vốn trọng chữ tình”. Cái chữ tình ấy được thể hiện trước hết qua biểu tượng: chén nước, miếng trầu. Người Quan họ khi đến chơi nhà không thể bỏ qua tục “mời nước, mời trầu”. Chị Hai Quan họ duyên dáng trong tà áo tứ thân, nụ cười ngọt ngào, ánh mắt lúng liếng, tay nâng chén nước, cơi trầu nhẹ nhàng mời khách: đôi tay nâng lấy cơi trầu - trà thơm thơm lừng cả mười ngón tay; “trầu xanh, cau trắng, chay hồng - vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên”. Có thể thấy được cái nét “duyên” trong từng câu hát của làn điệu dân ca Quan họ, rất bình dị nhưng cũng không kém phần thắm thiết. Họ đặt vào trong những câu hát cái tình, cái tâm với mong muốn thể hiện sự thương mến lẫn nhau:

“Khách đến chơi nhà
Đốt than, dọn nhà, quạt nước với pha trà mời người xơi
Quý vậy đôi người ơi…

Mỗi người xơi mỗi chén cho em vui lòng
(…)

Ai ơi nay có thấu, người ơi nay có nhớ chăng
Chăng là đến chúng em chăng?”

Có nhiều cách để tỏ bày tỏ tâm tư tình cảm cũng như những triết lý về cuộc sống, nhưng thể hiện qua biểu tượng là một cách làm mới lời ca khỏi những cái nhàm chán, quen thuộc. Biểu tượng vốn dĩ bắt nguồn từ vô thức tập thể. Biểu tượng trong thơ ca dân gian nói chung và trong lời ca của người Quan họ nói riêng phần nào phản ánh con người và xã hội đương thời với những kiếp người nhỏ bé, luôn bị chà đạp đến quyền sống. Đồng thời, hệ thống biểu tượng giàu ý nghĩa cũng góp phần thể hiện phẩm chất, tâm tư, tình cảm, khát vọng và “cái duyên, cái tình” của người Quan họ. Khám phá biểu tượng nghệ thuật trong lời ca Quan họ tức là khám phá đời sống tinh thần của con người xứ Kinh Bắc. Như là một sứ giả nghệ thuật trung thành, không biết nói dối, chuỗi biểu tượng nghệ thuật phần nào phản ánh một cách trung thực và khái quát về phẩm chất, về cốt cách cũng như về đời sống tinh thần của người Quan họ.

 

Tài liệu tham khảo

 

[1]. Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (1997). Nxb, Đà Nẵng.

[2]. Nguyễn Văn Hậu (2001), Tính hình tượng và tính biểu tượng trong tác phẩm văn hóa nghệ thuật, Nxb KHXH.

[3]. Đinh Hồng Hải (2007),  Nghiên cứu biểu tượng và vấn đề tiếp cận nhân học biểu tượng ở Việt Nam, Viện nghiên cứu Văn hóa, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

[4]. Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý (2019), Quan họ - Nguồn gốc và quá trình phát triển, NXB chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[5]. Hồng Thao (2002), 300 bài dân ca Quan họ Bắc Ninh, Viện Âm nhạc Việt Nam, Hà Nội.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết